Kiến trúc nhà ở nông thôn vùng đồng bằng Bắc bộ xưa khá giống nhau, đó là những ngôi nhà một tầng đơn sơ, nền làm sát mặt đất, vật liệu chủ yếu là tre, nứa lá, rơm rạ. Khuôn viên nhà gồm: qua cổng đến vườn cây, vào đến sân rồi mới đến nhà chính, nhà phụ, nhà bếp, khu vệ sinh, chuồng nuôi gia súc, trâu bò, vườn sau ao trước, hàng rào cây bao quanh, bên ngoài bao bọc bởi lũy tre làng… tạo nên mô hình sinh thái khép kín vườn – ao – chuồng. Nhà cửa khi xây dựng phải phù hợp với môi trường thiên nhiên, nương nhờ vào thiên nhiên tạo nên một hệ sinh thái bền vững. Người Việt rất coi trọng việc chọn địa điểm làm nhà, dựa trên kinh nghiệm và sự hiểu biết về vùng đất cư ngụ sinh sống, sao cho thuận lợi để tận dụng giá trị của đất.
Ông cha ta đã đúc kết nhiều kinh nghiệm quý trong quá trình từ chọn đất, chọn hướng đến xây dựng nhà ở, ví dụ “Lấy vợ hiền hòa, chọn nhà hướng nam”. Vốn gần biển, trong khu vực gió mùa nên trong bốn hướng chỉ có hướng nam là tránh được nắng chiều hướng tây (nắng xiên khoai), gió lạnh từ phương bắc (gió mùa đông bắc), bão từ phía đông và hứng được gió nồm thổi đến từ phía nam vào mùa nóng. Ngoài ra, cha ông ta cũng còn dựa vào thuyết phong thủy để tìm những thế đất tụ linh, tụ phúc… phù hợp với vận mạng của từng gia chủ khi đặt móng xây nhà. Nhà ở của cư dân đồng bằng Bắc bộ thường được làm bằng khung xoan, mít hay tre có kết cấu vững chắc với vì kèo ba bốn cột, liên kết bởi xà ở đầu và bậu ở chân cột. Xoan, mít hay tre sau khi được chọn lựa, để tránh bị tượng mối mọt và tăng độ bền, trước khi dựng nhà người ta thường mang đi ngâm ở các ao, hồ khoảng 1-2 năm. Nhà thường được làm với kết cấu ba gian hai trái, đối với những nhà khá giả thì có thể nhiều hơn và nguyên vật liệu làm khung nhà được chọn có thể là những cây gỗ tốt hơn.
Không gian chính của ngôi nhà thường nằm ở vị trí trung tâm và có thể bao gồm 3 gian, 5 gian… liên tục được hòa vào nhau và không có sự ngăn cách về thị giác. Điểm nhấn chính của không gian này là ban thờ tổ tiên ở chính giữa, hai bên ban thờ thường bố trí giường/phản – nơi diễn ra các hoạt động sinh hoạt vào ban ngày và ngủ nghỉ của đàn ông vào ban đêm. Ban thờ chi phối các không gian còn lại và cả ứng xử của mọi người trong không gian chính, từ lời ăn tiếng nói đến tư thế ngồi, hướng nằm ngủ, và các hoạt động thường ngày khác… Chính trong không gian này ta có thể cảm nhận được sự giao hòa âm dương (tư tưởng xuất phát về bản chất của vũ trụ theo quan niệm của người Việt) bởi sự tồn tại của các cặp lưỡng phân và lưỡng hợp, trong đó điểm nhấn chính là cặp thiêng – tục, “cõi chết” – “cõi sống” với sự hòa nhập trọn vẹn của không gian dành cho người sống và không gian dành cho người đã khuất . Bằng cách đó, người ta tin rằng thế giới bên kia không quá xa xôi và ông bà tổ tiên có thể thường xuyên trở về phù hộ cho con cháu. Đây cũng là không gian mang tính hướng ngoại nhất của ngôi nhà, là nơi để những gia đình giàu có thể hiện đẳng cấp và vị thế xã hội của mình.
Việc đầu tiên khi làm nhà gỗ là dựng các cây cột làm khung. Nhà gỗ có 4 loại cột chính là: cột cái, cột con, cột hiên, cột hậu. Cột cái sẽ được bố trí tại vị trí trung tâm của căn nhà và là cột có đường kính lớn nhất
Mái của ngôi nhà được thiết kế có độ dốc lớn để thoát nước mưa và tránh dột, tận dụng không gian từ độ dốc lớn làm thành gác, kệ lửng thêm chỗ để kho chứa thóc lúa, ngô khoai… Mái đưa ra xa chân tường vừa tạo nên bóng râm vừa tránh mưa hắt vào các chân cột gỗ và tường đất nện. Từ đó tạo nên hiên nhà giúp che nắng (tránh ánh nắng mặt trời chiếu thẳng vào trong nhà), đồng thời nới rộng không gian sử dụng tiện ích cho ngôi nhà. Chất liệu lợp mái tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của từng gia đình mà có thể là ngói hoặc tranh.
Không gian hiên nằm phía trước các gian chính của ngôi nhà, đóng vai trò là không gian chuyển tiếp giữa bên trong và bên ngoài nhà. Không chỉ góp phần chắn mưa che nắng cho không gian chính, hiên thường được mở rộng để gia tăng khả năng hoạt động và tạo ra một không gian rất đa năng, nơi mà tùy điều kiện và thời gian có thể được biến thành nơi giao lưu, ăn uống, sản xuất, giải trí hay làm kho chứa tạm. Có cả những ngôi nhà mà không gian hiên vượt qua hàng cột quân và mở rộng đến tận hàng cột cái, đủ chỗ cho cả 1 bộ trường kỷ để tiếp khách và thỏa mãn nhu cầu thường ngày của gia chủ. Không thuộc về bên trong cũng chẳng thuộc về bên ngoài, hiên có thể được coi là một trong những không gian “người” nhất trong nhà ở dân gian vùng đồng bằng Bắc bộ – một dạng “Không gian nhập nhằng” theo lý thuyết của KTS nổi tiếng Robert Venturi.

Hiên nhà gỗ có rất nhiều điểm thú vị. Hiên được đục chạm hoa văn trên các cấu kiện rất tỉ mỉ, đẹp mắt. Trên các kẻ hiên đục hoa văn tứ quý hóa rồng mềm mại, uyển chuyển. Trên các con rường đục hoa văn lá lật uốn lượn, sinh động. Cửa bức bàn đục ngũ phúc lâm môn, tư quý công phu. Trên các ô tam sơn, khung song ô thoáng là những họa tiết hoa văn đa dạng,… Tất cả tạo nên một không gian hiên đầy tính nghệ thuật
NGƯỠNG CỬA:
Ngưỡng cửa nhà gỗ có là một kiến trúc bằng tre hoặc gỗ được đặt ở mé dưới của khung cửa, phần trên là cánh cửa bức bàn. Với tác dụng là giữ cho khung cửa bức vững chắc. Đồng thời đây sẽ là điểm giới hạn quy định không gian bên trong và bên ngoài căn nhà gỗ Bắc Bộ. Ngưỡng cửa thông thường cao khoảng 30cm, tính từ nền gạch.

Ngưỡng cửa thường có cấu trúc cổ điển, cao ngang hoặc thấp hơn đầu gối một chút. Thế nhưng hiện tại ngưỡng cửa đã có nhiều thay đổi để phù hợp hơn với phong thủy, cũng như điều kiện sinh hoạt của gia đình.
Ý nghĩa và công dụng của ngưỡng cửa nhà gỗ
- Đây là phần làm tăng thêm tính thẩm mỹ cho ngôi nhà gỗ truyền thống, giúp ngôi nhà trở nên cân đối và hài hòa hơn. Tuy nhiên, đây là một kiến trúc được thiết kế không hề đơn giản, chúng ta cần lưu ý khi muốn sử dụng cấu trúc này.
- Ngưỡng cửa nhà gỗ còn mang nhiều ý nghĩa văn hóa sâu sắc. Chúng ta thường thấy ngưỡng cửa của nhà gỗ cổ truyền có thiết kế cao hơn, đây là điều không có ở các mẫu nhà hiện đại. Mục đích là để khi bước ra, bước vào người ta phải nhìn xuống chân tránh vấp ngã. Đồng thời hành động cúi đầu sẽ thể hiện sự tôn trọng của khách khi đến chơi với gia chủ.
- Đây cũng chính là nơi mà chúng ta khi quét nhà người ta sẽ phải dừng lại để hót rác chứ không phải hất luôn ra ngoài. Điều này có nghĩa là những thứ dù tốt hay xấu vẫn còn ở phạm vi trong ngôi nhà của mình.
Một vài lưu ý tốt cho phong thủy với nhà gỗ có ngưỡng cửa
- Tránh để nước trước ngưỡng cửa: Theo phong thủy không nên để nước trước ngưỡng cửa một cách bừa bãi. Chỉ nên đặt ở những nơi vượng tài, có lợi cho cuộc sống và đặc biệt là hợp tuổi với gia chủ.
- Hãy đề phòng việc việc nứt vỡ hay hư hại ngưỡng cửa. Là một bộ phận sát với phần nền của ngôi nhà. Vậy nên việc di chuyển đều sẽ phải đi qua ngưỡng cửa đó. Do vậy đây là phần chịu nhiều tác động và va chạm. Vậy nên hãy chú ý quan sát, trường hợp hư hại hãy khắc phục ngay. Để giúp không ảnh hưởng đến vượng tài của căn nhà gỗ cổ truyền .
SÂN
Sân cũng là một không gian không thể thiếu trong khuôn viên nhà ở dân gian vùng đồng bằng Bắc bộ. Đây là không gian mở ngoài trời, thường có vị trí trung tâm trong tổng thể bố cục, bởi hầu hết các khối nhà, dù là nhà chính hay nhà ngang đều hướng ra không gian này. Sân là một dạng không gian đa năng rất đặc trưng cho nhà dân gian truyền thống vùng đồng bằng Bắc bộ, nơi diễn ra nhiều hoạt động phù hợp với đặc điểm kinh tế và văn hóa nông nghiệp vùng, từ những sinh hoạt thường ngày như ăn uống, nghỉ ngơi, giải trí đến các hoạt động sản xuất tùy theo đặc điểm nghề nghiệp của gia chủ. Sân còn là phần mở rộng của không gian bên trong nhà trong các dịp giỗ chạp, cưới hỏi hay các nghi lễ khác của gia đình, dòng họ, là không gian kết nối các khối nhà và vườn… Sân và các khối nhà xung quanh tạo thành 1 cặp lưỡng phân và lưỡng hợp hoàn chỉnh. Về hình thể sân là không gian âm (khoảng trống) nằm giữa các khối nhà (dương). Về hoạt động sân lại có tính dương nhiều hơn so với các không gian xung quanh. Một lần nữa ta lại thấy được nguyên tắc về sự chuyển hóa giữa các thành tố của thuyết âm dương được biểu hiện rõ nét trong nhà ở dân gian: Trong dương có âm và ngược lại trong âm có dương.
Vườn cây
Để tạo không gian mát lành cho ngôi nhà, người xưa đã biết sử dụng tán cây, trồng những giàn cây leo quanh nhà như mướp, bầu bí… tạo thành các tấm che nắng tự nhiên, vừa tránh nắng nóng cho người và gia súc, chống chói do phản xạ từ các bức tường quét màu sáng quanh nhà, vừa lấy rau quả làm thức ăn.
Phần tường bao quanh nhà vừa bảo vệ, ngăn chia không gian, vừa cách nhiệt – nhất là hướng tây, để có những giải pháp trang trí kết hợp với cách nhiệt điều tiết khí hậu như các ô thông, cửa sổ, tường quét vôi màu trắng hoặc để nguyên màu tự nhiên của vật liệu, tường gạch không tô trát mà chỉ miết mạch, tạo cảm giác khang trang mát mẻ trên nền cây cối xanh tươi, bớt đi cái oi bức của mái ngói, sân gạch. Đối với tường bằng đất nện thì được làm rất dày tạo sự ấm cúng về mùa đông, mát mẻ về mùa hè.
Ngôi nhà thường chiếm tỉ lệ khá nhỏ so với diện tích khuôn viên, phần lớn được làm sân vườn trồng rau, hoa màu và cây ăn quả, làm hàng rào… tạo nguồn rau tươi, bóng mát có tác động điều hòa môi trường, che nắng, gió và chắn tầm nhìn vào nhà.
Kinh nghiệm dân gian cho thấy cái lý của người xưa khi ứng xử với khí hậu thời tiết: trồng cây lá rậm, lá to như cây chuối ở mặt nhà phía bắc để ngăn gió lạnh vào mùa đông, cản bức xạ mặt trời vào mùa hè (lúc này mặt trời ở hướng bắc); trồng cây có thân cao như cây cau ở phía nam của nhà để không ngăn cản gió mát mùa hè cũng như không che ánh nắng chiếu vào nhà về mùa đông (mùa đông, mặt trời ở hướng nam). Vì vậy các cụ đã đúc kết khi chọn lựa trồng cây cạnh nhà “trước cau sau chuối”.
Việc trồng cây quanh nhà, tạo thành vườn, làm hoa viên, ngoài chức năng tạo bóng mát, cải tạo khí hậu, trang trí… người ta còn tính đến việc khai thác giá trị kinh tế. Khuôn viên vườn thường có quy mô nhỏ gồm nhiều loại cây, rau. Người nông dân tận dụng thời gian nông nhàn tăng gia sản xuất, trồng hoa màu cung cấp thêm nguồn thực phẩm và nhu cầu khác cho gia đình khi mà việc trồng lúa theo mùa vụ không đủ bảo đảm nhu cầu cho cuộc sống. Cây trồng trong vườn gồm nhiều loại có giá trị cho cuộc sống thường ngày của người Việt: loại cây tạo nguồn thực phẩm rau màu, cây ăn quả, cây gia vị, cây phục vụ nghi lễ, cây làm thuốc…
Như vậy, cách ứng xử với các yếu tố thiên nhiên cho thấy khả năng thích ứng và chủ động của người dân vùng châu thổ sông Hồng trong ứng phó và tận dụng thiên nhiên khi xây dựng không gian cư trú, thể hiện sự hòa hợp hoàn toàn với thiên nhiên. Đây cũng là kinh nghiệm đúc rút qua nhiều năm, nhiều thế hệ của cư dân nơi đây, tạo nên nét kiến trúc độc đáo trong việc xây dựng không gian đời sống văn hóa mà biểu trưng là khuôn viên ngôi nhà gắn với cảnh sắc và con người, tạo nên biểu tượng về văn hóa làng quê Việt.